Con số và các biện pháp tu từ trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam - Trần Thị Lam Thủy

Ngôn ngữ - Văn hóa
Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 28065 25/07/2021 17:26:33

CON SỐ VÀ CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ

TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM

(The numbers and rhetorical ways In idioms, proverbs and folk-songs of Vietnam)

Trần Thị Lam Thủy

TÓM TẮT

Bài viết nghiên cứu con số từ phương diện nghệ thuật ngôn từ để thấy tính linh hoạt, khả năng sử dụng của lớp từ này trong các văn bản nghệ thuật và trong truyền thống lời ăn tiếng nói của người Việt. Từ những kết quả đạt được, chúng tôi có thể kết luận: như mọi yếu tố ngôn ngữ khác khi tham gia vào ngôn bản, con số có thể được vận dụng để so sánh, để nhấn mạnh bằng biện pháp điệp, tăng tiến hay tạo sự tương phản… trong cấu trúc nhịp nhàng, cân đối của thành ngữ, tục ngữ và ca dao.

Từ khóa: con số; nghệ thuật ngôn từ; cách so sánh; nhấn mạnh bằng biện pháp điệp; tăng tiến, đối lập trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao

ABSTRACT

“This article researches the numbers from area of the art of words to show the flexibility and usability of this word-class in artistic text and tradition of the Vietnamese language. From the results that we have achieved, we can conclude: the numbers are used to compare by comparative way and stress by repeating the number or arranging them in progressing order or making the contrast between the numbers… in harmonious and rhythmic structures of idioms, proverbs and folk-songs.”

Keywords: number; the art of words; comparative way; stress by repeating; progressing order; making the contrast in idioms, proverbs and folk-songs

  1. Đặt vấn đề

Thành ngữ, tục ngữ, ca dao là những thể loại giàu tính nghệ thuật. Trong đó, các yếu tố ngôn ngữ, ngoài ý nghĩa cơ bản còn có các ý nghĩa bổ sung, có màu sắc tu từ được hình thành từ những thành tố: biểu cảm (chứa đựng những yếu tố hình tượng), cảm xúc (diễn đạt những tình cảm, cảm xúc), bình giá (khen, chê) và phong cách chức năng (chỉ rõ phạm vi sử dụng thường xuyên, cố định). Ngoài ra, các yếu tố ngôn ngữ trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao còn chịu sự chi phối của các phương thức cấu tạo (so sánh, đối xứng, phi đối xứng), các lối diễn đạt (ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ ngữ, tiệm tiến, khoa trương, nói giảm, chơi chữ...) của các thể loại.

 

Với vai trò là thành tố cấu tạo của thành ngữ, tục ngữ, ca dao, con số cũng được tác giả dân gian sử dụng như những phương tiện tu từ làm đẹp cho ngôn bản của mình. Nhờ vậy, con số tham gia vào lời ăn tiếng nói cũng như có mặt trong các sản phẩm nghệ thuật ngôn từ của người Việt một cách nhuần nhị và không kém phần tinh tế. Khảo sát con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao từ phương diện nghệ thuật có thể cho chúng ta thấy rõ hơn vẻ đẹp của con số với tư cách là một phương tiện nghệ thuật ngôn từ trong những sản phẩm văn hóa-ngôn ngữ mang tính truyền thống của người Việt.

  1. Các biện pháp tu từ với con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao

2.1. Biện pháp so sánh

"So sánh là biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có nét giống nhau nào đó nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng" [4; tr. 154]. Một trong những nội dung so sánh với con số được sử dụng nhiều trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao là so sánh hơn kém về lượng.

2.1.1. So sánh ngang bằng

Sự so sánh dựa trên cơ sở ngang bằng về lượng chỉ diễn ra ở cặp kết hợp một - một. Với kết hợp này, các con số thường được kết hợp với danh từ chỉ đơn vị. Sự khác nhau giữa hai vế dựa trên sự khác biệt, hơn kém do danh từ đơn vị đem đến. Chẳng hạn: của một đồng, công một nén; một công một của; sai một li, đi một dặm,... (thng); Chém làng cách một gang tay, chém lang sâu một tấc, Một cục đất ải bằng một bãi phân; Một đám ruộng hóc không bằng một góc ruộng đồng...(tng)... so sánh gắn với những kinh nghiệm, hoặc ý khuyên răn hoặc đưa ra những nhận xét mang tính quy luật. Hầu hết trong mối quan hệ giữa hai vế đem ra so sánh, bao giờ tác giả dân gian cũng dành dụng ý để nhấn mạnh, đề cao một vế, vế còn lại làm cơ sở để người nghe hiểu được mức độ tác dụng hay tác hại của vấn đề. Chẳng hạn nói: Một con người đần bằng một sân nấm độc, một con người ngọc áo bọc ác hoàng (người nghe dễ hình dung ngay mức độ nguy hiểm của một sân nấm độc, từ đó để có những cân nhắc, lựa chọn một cách sáng suốt). Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, sự so sánh về lượng ngang bằng - hơn kém này với cặp một - một chỉ diễn ra trong thành ngữ và tục ngữ.

2.1.2. So sánh đối lập

So sánh đối lập (đối sánh) thường diễn ra trong các cặp số: một - hai, hai - một, ba - một, một - ba, một - chín; một - mười... trên cả ba thể loại. Các con số được đặt trong sự so sánh trên các phương diện số lượng hoặc mức độ. Chẳng hạn: Một tiền gà, ba tiền thóc; Một bàn tay thì đầy, hai bàn tay thì vơi (tng); Muốn no thì phải chăm làm / Một giọt thóc vàng, chín giọt mồ hôi (cd); Ba năm ở với người đần, chẳng bằng một lúc đứng gần người khôn; Mười anh buôn bán không bằng một anh làm ruộng (tng); Cùng nhau vả tiếng một ngày / Ngãi nhân thăm thẳm cũng tày ba thu (cd).

Sự đối sánh thường diễn ra trên cùng một tiêu chí. Chẳng hạn, tiêu chí về thời gian: một khắc / ba thu; một đêm thuyền chài / chín tháng thuyền buôn; tiêu chí về lượng: một giọt thóc / chín giọt mồ hôi; một thưng / ba đấu; mười anh / một anh, v.v. Từ những sự đối sánh về lượng, tác giả dân gian vươn tới khẳng định những giá trị về chất.

2.1.3. So sánh đối chiếu

Hầu hết trên cả ba thể loại, sự so sánh để xác định vị thứ ít khi được sử dụng với từ so sánh như bằng, ngang, cầm như, hơn, thua,... mà qua sự sắp xếp vị thứ, người ta ngầm hiểu đã có sự so sánh (so sánh ngầm). Chẳng hạn: Nhất thì nhì thục; Nhất mẹ nhì con (thng); Thứ nhất leo rễ, thứ nhì trễ cành (tng); Ở nhà nhất mẹ nhì con / Ra đường tám vạn người khôn bằng mười (cd).

Tuy nhiên, như chúng tôi đã khẳng định, khi phân tích con số thứ tự, sự so sánh ở đây nhiều khi không mang tính định vị, cũng không có giá trị định lượng mà chủ yếu đối chiếu để định tính, tìm sự tương đồng. Ví dụ: Thứ nhất là vực Tam Soa, thứ hai vực Phố, thứ ba vực Nầm; Thứ nhất góc ao, thứ nhì đao đình; Thứ nhất giặc phá, thứ nhì nhà cháy; v.v...

2.1.4. So sánh nhấn mạnh

Khi so sánh đặc điểm của sự vật, hiện tượng với một sự vật hiện tượng gắn với số, các sự vật, hiện tượng được định lượng hóa, định tính hóa bằng các con số. Nhờ thế, người Việt đánh giá giá trị của sự vật một cách vừa cụ thể, vừa ấn tượng. Ví dụ: giống nhau như hai giọt nước; vững như kiềng ba chân;...(thng); Nọc người bằng mười nọc rắn; Mẹ già bằng ba rào dậu;...(tng); Ai về ai ở mặc ai / ta như dầu đượm thắp hoài năm canh; Dù ai nói ngả nói nghiêng / Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân (cd), v.v.

Ở kiểu so sánh này, hầu hết chỉ có một con số trong phát ngôn. Đồng thời bắt buộc phải có các từ dùng để so sánh đi kèm như: như, giống như, hơn, kém, ngang, bằng, v.v. Trường hợp so sánh này, một số người gọi là so sánh hiện.

Như vậy, có thể thấy với biện pháp tu từ so sánh, tác giả dân gian sử dụng cả hai hình thức chính: so sánh đặc điểm của sự vật, hiện tượng với đặc điểm của sự vật hiện tượng gắn với số và so sánh sự vật, hiện tượng với sự vật, hiện tượng gắn với số. Hầu hết các con số được đặt trong kết hợp, hai vế cân đối về mặt cấu trúc, tạo sự hài hòa về thanh điệu, đồng thời sự so sánh thường diễn ra trên cùng tiêu chí để từ đó khẳng định giá trị của sự vật, hiện tượng, đặc điểm, đặc tính... của một trong hai vế gắn với con số.

2.2. Biện pháp lặp (điệp) số

Trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao, những con số được dùng lặp lại mang tính nghệ thuật cao. Hiện tượng lặp giàu giá trị biểu trưng chủ yếu diễn ra ở cặp con số một và con số ba; một vài trường hợp lặp lại ở số hai, số năm và số mười song không nhiều. Ví dụ: hai tay hai gậy; mười phân vẹn mười (thng); Đòn càn hai mũi, đòn xóc hai đầu; Thờ hai chúa, ở hai lòng; Năm con năm bát, nhà nát cột xiêu; Năm con năm nhớ, mười vợ mười thương (tng); Em buôn chi rồi lại bán chi / Mười hôm chợ phố em đi cả mười (cd), v.v.

Hiện tượng lặp ở con số ba và con số một tương đối phổ biến trên cả ba thể loại thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Chẳng hạn: một còn một mất; một lòng một dạ; một sớm một chiều; ba đấng ba loài; ba cọc ba đồng...(thng); Một đống khoai, một đống vỏ; Ai giàu ba họ, ai khó ba đời; Cờ ba cuộc, cơm ba bát, thuốc ba thang (tng); Một mai nên vợ nên chồng / Ta đi một lối, về chung một đường; Khi nào cởi áo đắp chung / Cơm ăn một đọi, ngủ chung một giường (cd), v.v.

Ở đây, con số cũng được đặt trong sự đối xứng, tuy nhiên, khác với so sánh, sự đối xứng không nhằm mục đích nhấn mạnh một trong hai vế mà tạo sự hợp nghĩa. Lặp lại một lần nữa chính con số ở vế trước để vế sau cùng bổ sung, nhấn mạnh cho nội dung của toàn phát ngôn. Chẳng hạn: thiếp một đàng chàng một ngả - hai con số một cùng biểu trưng cho sự xa cách, phân li; đi một lối, về chung một đường - biểu trưng cho sự gặp gỡ, giao hòa, hạnh phúc; hoặc Một năm một tuổi như đuổi xuân đi - biểu trưng cho tốc độ của thời gian đối với tuổi trẻ, v.v.

Một số trường hợp con số được lặp lại nhiều lần, đem đến cho người đọc cảm giác con số trùng trùng điệp điệp. Ví dụ, ấn tượng về sự gắn bó, tha thiết trong tình yêu: Một thuyền, một bến, một dây / Ngọt bùi ta hưởng, đắng cay chịu cùng (cd); ấn tượng về một vùng đất địa linh nhân kiệt: Một giỏ sinh đồ, một bồ ông cống, một đống ông nghè, một bè tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn (tng); ấn tượng về sự gắn bó trong công việc tới mức có thể gọi là xác định “sinh nghề tử nghiệp”: Một đồng một giỏ không bỏ nghề trầu, một đồng một bầu không bỏ nghề sơn (tng).v.v...

2.3. Biện pháp tăng tiến

Tăng tiến là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong đó người viết (nói) cố tình sắp xếp các thành tố của phát ngôn cùng nói về sự vật / đặc tính của sự vật theo trình tự tăng dần về số lượng, mức độ, cường độ biểu cảm, cảm xúc. Với con số, biện pháp tăng tiến được vận dụng cụ thể theo trật tự sắp xếp tăng dần về lượng trong chuỗi ngữ lưu. Tuy nhiên, trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao sự tăng tiến về lượng thường được sử dụng để biểu trưng cho sự phát triển hoặc thay đổi về chất. Chẳng hạn: ba đầu, sáu tay, mười hai con mắt (thng); Một con tội sống, hai con tội chết, ba con hết tội; (tng); Người sao một hẹn thì nên / Người sao chín hẹn thì quên cả mười...(cd). Sự sắp xếp các con số tăng tiến ở đây đã đem đến cho người đọc, người nghe cảm nhận rõ nét về sự vật, hiện tượng đang phát triển: ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh (thng), Một vợ nằm giường lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng heo (tng). Sau mỗi con số xuất hiện, đối tượng được nói đến phát triển ở mức độ cao hơn, thể hiện rõ hơn dụng ý của người nói. Đặc biệt, ca dao, với đặc trưng là phương tiện biểu hiện tình cảm, khi những con số xuất hiện liên tục trong một câu/bài như Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo / Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu đèo cũng qua hay Một thương, hai nhớ, ba trông / Bốn chờ, năm đợi, bảy tám chín mong, mười tìm thì những cung bậc tình cảm cũng dâng trào với khát vọng, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách một cách quyết liệt. Vì thế những biểu trưng của tập hợp số càng trở nên đậm nét và ấn tượng.

Một điểm đặc biệt là sự sắp xếp các con số ở đây hầu như chỉ một chiều từ số bé đến số lớn, ít thấy có bài ca dao hay câu tục ngữ nào sắp xếp ngược lại từ lớn đến bé. Âu đây cũng là một kiểu sử dụng con số trong các thể loại thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Trong văn học viết, sự vận dụng con số với các tác giả nhiều khi rất phong phú, linh hoạt, dù họ vận dụng chính lời ăn tiếng nói của nhân dân nhưng vẫn thể hiện rõ cá tính của từng tác giả. Chẳng hạn, với nhà thơ Tú Xương, khi diễn tả nỗi vất vả của vợ, dường như ông cảm nhận sự cực nhọc vất vả càng ngày càng chồng chất lên đôi vai của vợ qua từng con số: Một duyên hai nợ, âu đành phận / Năm nắng mười mưa, gắng quản công (Thương vợ, Tú Xương). Hoặc sự vận dụng theo trật tự giảm dần: Nhà em cách bốn quả đồi / Cách ba ngọn núi, cách đôi cánh rừng / Nhà em xa cách quá chừng / Em van anh đấy, anh đừng yêu em (Vài nét rừng, Nguyễn Bính). Người con gái nói đến khó khăn khi người con trai đến với mình như một sự ngăn cản (cũng có thể coi là một cách thử lòng của cô gái đối với chàng trai). Cái ý nghĩa hiển ngôn trên bề mặt ngôn từ là xa cách quá, khó khăn, gian khổ quá (nào đồi, núi, rừng...), nhưng các con số gắn với nó thì cứ giảm dần: bốn - ba - đôi (chắc nếu còn có những câu tiếp theo, khó khăn sẽ còn giảm nữa... tới mức có thể là nhà em “ngay cạnh” bên nhà anh). Những cảm nhận như vậy, được tạo nên nhờ sự sắp xếp những con số.

Ngược lại, trật tự tăng tiến trong ca dao như Một thương, hai nhớ, ba trông / Bốn chờ, năm đợi, bảy tám chín mong, mười tìm thì rõ ràng sự khẳng định là nhớ quá, thương quá, mong quá... và đỉnh điểm của những tình cảm đó là mười tìm. Có thể thấy, việc vận dụng trật tự con số đã giúp người nói biểu lộ được nhiều ý nghĩa tinh tế không dễ gì diễn đạt thành lời trên bề mặt hiển ngôn.

2.4. Biện pháp tương phản - đối ứng

Tương phản – đối ứng là biện pháp kết hợp tu từ từ vựng và cấu trúc trong đó sử dụng các từ ngữ có ý nghĩa, điệu tính trái ngược nhau như lớn – bé, xấu – tốt, cao quý – thấp hèn... nằm trong mối quan hệ đối chọi nhau và được đặt trong những cặp cấu trúc tương ứng với nhau. Khi sử dụng biện pháp tương phản với con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao, tác giả dân gian thường đặt hai con số trong cùng một đơn vị / câu / dòng được chia tách thành hai vế cân đối hoặc hai dòng kề nhau. Kiểu đối ứng xuất hiện khi mối quan hệ đối xứng được thiết lập nhờ vào những thuộc tính tương đồng về ngữ nghĩa và ngữ pháp của các yếu tố trong hai vế. Về mặt ngữ pháp, các yếu tố đối xứng nhau phải thuộc cùng phạm trù từ loại. Đồng thời về thanh điệu các từ ở vị trí tương ứng cũng đối lập nhau về thanh điệu (bằng – trắc) để tạo nên giá trị tu từ nhất định.

Qua khảo sát, có các trường hợp tương phản – đối ứng phổ biến là:

2.4.1. Tương phản về chất giữa các đối tượng đi kèm con số

Nếu kết hợp so sánh hầu hết chỉ xuất hiện trong tục ngữ thì kết hợp kiểu đối ứng này chủ yếu chỉ xuất hiện trong thành ngữ. Với cấu trúc bốn yếu tố, tạo thành hai vế đối xứng với nhau, mỗi vế gồm hai yếu tố. Chẳng hạn: một già / một trẻ; một dày / một mỏng; một sống / một chết... tạo thành hai vế cân đối - bằng nhau về mặt định lượng nhưng các từ đi kèm đối lập nhau về nghĩa (thuộc tính của sự vật). Chẳng hạn: một già / một trẻ (đối lập về tuổi tác: già – trẻ); một dày / một mỏng (đối lập về mức độ, đặc điểm: dày – mỏng); một sống / một chết (đối lập về trạng thái: sống – chết), v.v.

2.4.2. Tương phản về lượng/mức độ giữa số lớn và số bé

Trong các cấu trúc có hai số khác nhau, chênh lệch nhau về ý nghĩa số lượng xảy ra hai trường hợp nghĩa:

Trường hợp thứ nhất, con số khác nhau kết hợp với các từ chỉ đơn vị lớn bé khác nhau để tạo nên sự tương đồng cho hai vế. Chẳng hạn: ba bò / chín trâu; ba bó / một giạ; ba đấm / một đạp; ba thưng / một đấu; chín đụn chẳng coi / một doi ai dè, v.v.

Trong trường hợp này, các từ ngữ đi kèm với con số phải đảm bảo các tiêu chí:

Thứ nhất, các từ phải cùng từ loại. Chẳng hạn trâu cùng là danh từ chỉ sự vật, giạ, thưng đấu, đụn doi cùng là danh từ chỉ đơn vị.

Thứ hai, các từ phải tương xứng về ý nghĩa: nội dung ý nghĩa của các yếu tố cũng phải đối xứng nhau trong hai vế. Nghĩa là chúng đều có đặc trưng chung là biểu thị những sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình... thuộc cùng một tiểu nhóm hay cùng một phạm trù ngữ nghĩa, có cùng một bậc quan hệ giống nhau.

Thứ ba, con số lớn thường kết hợp với từ chỉ đơn vị được cho là nhỏ hoặc mức độ nhẹ hơn, yếu hơn, con số nhỏ lại đi kèm với từ chỉ đơn vị lớn hơn hoặc mức độ mạnh hơn.

Trong các ví dụ trên, trâu cùng chỉ con vật dùng để cày bừa, cùng là yếu tố định giá tài sản của người nông dân; giạ cùng là đơn vị ước chừng chỉ đơn vị tính thóc lúa. Sự cân bằng về số lượng các yếu tố trong mỗi vế, sự tương đồng về ngữ nghĩa - ngữ pháp của các yếu tố đi kèm con số tạo cho người nghe cảm giác về mặt định lượng cũng ngang bằng nhau giữa hai sự vật của hai vế.

Trường hợp thứ hai, hai vế cân đối - tạo ấn tượng về một phép cộng. Ấn tượng này chủ yếu được tạo nên bởi cặp kết hợp ba bảy. Chẳng hạn: ba bè bảy mảng; ba bè bảy mối; ba cha bảy mẹ; ba chìm bảy nổi; ba hồn bảy vía; ba lần bảy lượt; ba vuông bảy tròn... kiểu kết hợp này thường được sử dụng trong một số ngữ cảnh sau:

- Chỉ sự rắc rối, lộn xộn trong một tổng thể thiếu sự kết hợp, thống nhất giữa các thành viên: ba bè bảy mảng; ba bè bảy mối; ba cha bảy mẹ (thng).

- Chỉ sự toàn vẹn, toàn thể: ba vuông bảy tròn; ba bể chín chu (thng).

- Chỉ sự vất vả, lận đận hay việc phải làm đi làm lại nhiều lần: ba lần bảy lượt; ba chìm bảy nổi; ba cơm bảy mắm (thng).

Lí giải vì sao những kết hợp babảy trên thường biểu trưng cho những sự vật, hiện tượng mang tính rộng lớn. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, nếu thực sự làm một phép tính nhỏ, tất nhiên ba cộng bảy sẽ là mười – đây là con số toàn vẹn nhất, uy lực nhất, mạnh nhất, đầy đủ nhất theo quan niệm của người phương Đông. Khi các con số bằng sự kết hợp của mình đạt đến mười thì có nghĩa là nó đã vươn tới sự toàn vẹn, rộng lớn của giá trị vật chất.

Kiểu kết hợp này đặc biệt tạo được tính cân đối, tính nhịp nhàng và tính hàm súc cho thành ngữ, đồng thời có thể xác định ý nghĩa của con số (trong quan hệ với số khác) chỉ về một số lượng sự vật, hiện tượng chung chung, nhưng lại toát lên hàm ý đánh giá về chất. Nhờ kiểu đối ứng và tương phản này, các thành ngữ, tục ngữ, ca dao không chỉ nhấn mạnh một vế mà đồng thời khẳng định được cả hai vế trong kết hợp, tạo nên những biểu trưng toàn vẹn về con số.

Khảo sát trên 456 thành ngữ, 2132 câu tục ngữ và 2951 bài ca dao, chúng tôi có kết quả như bảng sau:

Thống kê các biện pháp tu từ trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao

TT

Biện pháp tu từ

Kiểu kết hợp giữa các vế trong đơn vị/câu

Số đơn vị/câu/bài sử dụng biện pháp tu từ

1

So sánh

So sánh ngang bằng

39 (thng); 191 (tng)

So sánh đối lập

78 (thng); 151 (tng); 242 (cd)

So sánh đối chiếu

(với số thứ tự)

28 (thng); 93 (tng); 195 (cd)

So sánh nhấn mạnh

25 (thng); 95 (tng); 255 (cd)

2

Lặp (điệp) số

Con số được lặp lại trùng điệp qua các vế câu

35 (thng); 148 (tng); 197 (cd)

3

Tăng tiến

Các con số tăng dần về lượng, mức độ qua các vế

5 (thng); 205 (tng); 267 (cd)

4

Tương phản - đối ứng

Tương phản về chất giữa các đối tượng đi kèm con số

87 (thng); 232 (tng); 175 (cd)

Tương phản về lượng, mức độ giữa số lớn và số bé

99 (thng); 165 (tng); 277 (cd)

 

          Tổng hợp bảng trên, chúng tôi có: 396/456 thành ngữ (tỉ lệ 86,8%); 1280 / 2132 câu tục ngữ (tỉ lệ 60%); 1608/2951 bài ca dao (54,5%) sử dụng biện pháp tu từ, cho thấy việc vận dụng các biện pháp tu từ khá phổ biến trong cả ba thể loại. Điều đó cũng cho thấy người Việt rất dụng công trong việc sử dụng ngôn ngữ dù là trong lời ăn tiếng nói hàng ngày hay trong ngôn bản nghệ thuật của mình.

  1. Kết luận

          Nếu nói mỗi từ bản thân nó là một tác phẩm nghệ thuật thì các con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao thực sự là những tác phẩm toàn vẹn: giàu biểu trưng về nghĩa, đa dạng về sắc thái biểu cảm và mang đậm bản sắc văn hóa - ngôn ngữ Việt Nam. Hơn đâu hết, những thể loại thành ngữ, tục ngữ, ca dao là trí tuệ, cảm xúc dân gian, là linh hồn của dân tộc, cũng là nơi hội tụ vẻ đẹp ngôn từ của dân tộc. Ở đây, ta gặp chất thơ, chất nhạc trong mỗi phát ngôn. Bởi vậy, những con số cũng lại là yếu tố góp phần làm nên thơ, nên nhạc. Nói cách khác, chính lối diễn đạt và nghệ thuật sử dụng ngôn từ của người Việt đã cho con số khả năng tạo nên nhạc, nên thơ, nên nghĩa… trong quá trình tham gia vào các phát ngôn. Qua các biện pháp tu từ được sử dụng gắn với con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao, chúng ta có thể khẳng định, con số và việc vận dụng số trong lời ăn tiếng nói của người Việt là một nghệ thuật ngôn từ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

  1. Hoàng Văn Hành (2001), Thành ngữ học tiếng Việt. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  2. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật (2002), Kho tàng ca dao người Việt (2 tập), Nxb VH - TT Hà Nội.
  3. Nguyễn Xuân Kính (2002 - chủ biên), Kho tàng tục ngữ người Việt (2 tập), Nxb VH - TT Hà Nội.
  4. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005.
  5. Trần Thị Lam Thủy (2012), “Sự hoạt động và biến đổi ngữ nghĩa của con số ba trong mối quan hệ với những con số khác (qua thành ngữ, tục ngữ và ca dao người việt)”, Từ điển học và Bách khoa thư, số 1.

 

DANH MỤC

TOP XEM NHIỀU
Ngôn ngữ - Văn hóa
28065
Con số và các biện pháp tu từ trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam - Trần Thị Lam Thủy Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 25/07/2021 17:26:33
Ngôn ngữ - Văn hóa
26917
Viết đúng chính tả D và Gi Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 22/07/2021 21:30:44
Tiếng Anh
23868
Phân biệt các từ, cụm từ dễ nhầm: do – make – have – give – go – take away Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 06/09/2021 19:39:10
Tiếng Anh
18820
Phân biệt các từ, cụm từ dễ nhầm: NO – NONE – NOT Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 12/09/2021 20:01:28
Tiếng Anh
18569
Phân biệt các từ, cụm từ dễ nhầm - LACK OF – SHORTAGE OF Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 12/09/2021 18:34:25
Tiếng Việt Phổ thông
12124
Từ đa nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ - Trần Thị Lam Thủy Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 24/08/2021 12:03:50
Ngôn ngữ - Văn hóa
11987
Các kiểu cấu trúc thông tin của câu đơn tiếng Việt Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 24/07/2021 17:54:27
Giáo dục và PPDH
9111
Dạy học biện pháp tu từ cho học sinh tiểu học theo hướng tích hợp Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 17/04/2021 18:50:37
Tiếng Việt Phổ thông
5821
Từ đồng âm và từ đa nghĩa - Trần Thị Lam Thủy Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 11/08/2021 17:46:32
Ngôn ngữ - Văn hóa
5549
Đặc trưng văn hóa lúa nước của người Việt thể hiện qua tục ngữ Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 22/07/2021 18:51:50
Tiếng Việt Phổ thông
5523
Cấu tạo từ tiếng Việt - Trần Thị Lam Thủy Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 07/08/2021 16:59:08
Tiếng Việt Phổ thông
5460
BÀI 6 - TỪ XƯNG HÔ - Trần Thị Lam Thủy Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 02/09/2021 17:18:35
Tiếng Anh
4119
Phân biệt các từ, cụm từ dễ nhầm: NEAR – NEARLY – NEARBY Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 12/09/2021 19:51:08
Tiếng Việt Phổ thông
3301
Bài 8 - Từ ngữ trong khẩu ngữ - Trần Thị Lam Thủy Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 06/09/2021 21:07:02
Tiếng Việt Phổ thông
3071
Từ cũ và từ Hán Việt - Trần Thị Lam Thủy Tác giả: Dr Lam Thủy Trần 05/09/2021 12:05:39
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT MỸ

Quyết định thành lập số 18-51/QĐ/VAYSE-VPNB ngày 12/07/2018 của Trung ương Hội Trí Thức Khoa Học Và Công Nghệ trẻ Việt Nam.

Giấy CNĐKHĐ: A-1953 cấp ngày 31/07/2018 tại Bộ Khoa học và Công nghệ

Địa chỉ: 94/44 Lưu Chí Hiếu, Phường Tây Thạnh, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh

Điện thoại: 0903328995

Email: info@vmied.edu.vn

Mạng xã hội
Đăng Ký Tư Vấn Qua Zalo