Suy nghĩ về mấy lời hát ví - Phan Mậu Cảnh
SUY NGHĨ VỀ MẤY LỜI HÁT VÍ
PGS. TS. Phan Mậu Cảnh
Một trong những thể loại ca hát đặc sắc của dân ca Nghệ Tĩnh là hát ví. Có nhiều nội dung được thể hiện ở đây, trong đó có một số lời hát thể hiện nội dung khá độc đáo mà giới nghiên cứu ít đề cập tới. Đó là những lời hát giễu, hát mỉa và hát chửi.
Lời chửi, mắng, chế giễu, mỉa mai… là hiện tượng dùng ngôn ngữ để biểu thị thái độ của con người trong ứng xử. Đây là những lời nói đã xuất hiện từ rất sớm cùng với lời chào hỏi, xin lỗi, cảm ơn… Và dân tộc nào cũng có những hiện tượng này. Bằng chứng là các lối nói trên đã được đưa vào trong thành ngữ, truyện cổ tích, ca dao, dân ca… lưu truyền ở nhiều vùng.
Nói chung thì chửi được quan niệm là lối ứng xử tiêu cực, thiếu văn hoá, phi chuẩn mực. Lời mắng giễu, mỉa mai… cũng bị xếp tương tự nhưng ở mức nhẹ hơn. Vì vậy, các hiện tượng này thường bị ngăn cấm trong sử dụng, ít được chú ý nghiên cứu. Mặc dù thế, thật kỳ lạ, các lối nói này không những không mất đi mà trái lại, càng có xu hướng phát triển trong đời sống xã hội.
Riêng trong sáng tác dân gian nói chung, hát ví Nghệ Tĩnh (mà trong bài viết này, chúng tôi lấy đó làm dẫn liệu) nói riêng, ta có thể gặp các hiện tượng trên ở khá nhiều câu, nhiều bài. Có thể nói, cùng với các nội dung bộc lộ tâm tư, tình cảm rất đằm thắm, trữ tình thì những lời hát giễu, hát mỉa, hát chửi… đã làm thành bảng màu cực kỳ đa dạng và sinh động trong hát ví Nghệ Tĩnh.
Có bài thể hiện sự trào lộng về vợ chồng: Chồng hen lại lấy vợ hen / Đêm nằm cò cử như kèn thổi đôi.
Đây là lời nói với bạn: Ở nhà mới bước chân ra / Nom (trông) thấy mặt bạn như ga (gà) chó đòi (đuổi). “Ga chó đòi” là thành ngữ chỉ sự hốt hoảng, thiếu bình tĩnh. Lời hát vừa là nhận xét vừa là sự chế giễu về thái độ.
Một người vợ nói về chồng mình: Chồng người vác súng đòi voi / Chồng em vác đũa đòi ròi (ruồi) bên mâm. Trong lời hát, tuy có ngoa dụ, nhưng bao hàm một sự than trách về người chồng nhút nhát.
Chiếm phần lớn hát ví Nghệ Tĩnh là những lời đối đáp. Trong cuộc hát, người ta chia thành hai phường, hai phái (nam- nữ), có bên xướng (hỏi) và bên họa (đối đáp). Đây là lời trách của bên nam:
Trách em một chữ vô nghì
Chào anh một tiếng mất đi đàng nào?
Bên nữ thú nhận pha chút tủi hờn:
Đi qua nghiêng nón cúi lưng
Không dám chào bạn cộ (cũ) bởi chưng đói nghèo.
Cũng có khi lời hát là sự chế giễu, mỉa mai, chê trách một thói hư tật xấu:
Không tham anh lắm rọng (ruộng) nhiều bò
Tham anh một nội (nỗi) vác vò xán (ném) cha.
Đáp lại, chàng trai thú nhận:
Anh vốn có tính hốt hỏa lôi đình
Lúc tâm thần bất định, có ném ông thân sinh cái vò([1]).
Trong lao động, nam nữ thường trêu chọc nhau:
Hỡi o (cô) cợi (cưỡi) con tru (trâu) đực cao kỳ (sống lưng)
Cho anh cợi (cưỡi) với, tắc hò rì cho quen([2]).
Cô gái cũng tỏ ra mạnh dạn:
Lại đây mà cợi anh nì (này)
Anh tắc bên nọ thì em hò rì bên tê (kia).
Câu hát ví, cũng như câu ca dao, đều có chung cội nguồn và do quần chúng sáng tác truyền miệng. Nhiều câu hát ví đã thành ca dao, nhiều câu ca dao được dùng trong hát ví. Nhưng vẫn có sự phân biệt. Ngôn từ trong ca dao được chọn lọc, trau chuốt, đạt đến độ chuẩn mực và gần với văn học bác học; còn hát ví, bên cạnh những điểm tương đồng với ca dao, lại thấy những dị biệt: từ ngữ trong ví thường mộc mạc, dân dã, có nhiều từ địa phương, từ ngữ thông tục. Bởi vì, hát ví là những sáng tác tức thì, mang hơi thở nóng hổi của người dân lao động. Nó là thứ ngôn ngữ “nguyên liệu” nguyên sơ cất lên từ trong đời sống lao động, sinh hoạt hàng ngày. Những câu hát hò ấy làm cho không khí lao động thêm phần “văn nghệ” vui nhộn, giảm bớt những mệt nhọc của công việc đồng áng, giã gạo, chèo thuyền, dệt vải…
Có cô gái nghịch ngợm, ví mình như quả khế chua, ai cũng thèm, nhưng lại ở chỗ cấm:
Em như trấy (quả) khế trong chùa
Ông đi qua, bà đi lại, chộ (thấy) của chua ai cũng sèm (thèm)
Bên con trai chế lại:
Em như trấy khế trong chùa
Cho anh, anh không lấy
Bán cho anh, anh nỏ (chẳng) mua
Vì chưng thằng cu([3]) anh hắn dại, chộ (thấy) của chua hắn sèm (thèm)
Cách “chơi chữ” ấy làm cho cô gái bị một phen đỏ mặt. Cũng cần nói thêm rằng, các đề tài trong chuyện trò, ca hát của dân gian rất phong phú, đa dạng. Có những lời ý nhị lẫn những lời bỗ bã, có những chuyện “thanh” và chuyện “tục”([4]). “Chuyện ấy” và “cái ấy” là một trong những đề tài được nói đến nhiều, đem lại tiếng cười hồn nhiên, thoải mái. Có điều, khi sưu tầm, nghiên cứu, người ta gạt bỏ, né tránh cái vùng cấm ấy. Vì thế, lời tục, chuyện tục vắng bóng trong sách vở ghi chép.
Lời chửi, tuy rằng được xem là “kém văn hóa” nhưng dù sao, vẫn được ghi lại. Trong hát ví, từ việc chế giễu, mỉa mai, chọc tức nhau cũng có thể dẫn đến những “xung đột”, đi đến hát chửi nhau.
Một chàng nho sĩ bị các cô gái hỏi:
Nghe tin anh học vấn có tài
Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa (thế) chàng?
Anh chàng bí, vì sách vở không ghi rõ cha Mạnh Tử là ai. Biết có kẻ “gà” cho các cô một câu khá hiểm hóc, chàng bèn chửi một câu:
Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra
Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày.
Trong lời hát xướng hỏi, có khi là hỏi để thử tài, thử sự nhanh trí. Chẳng hạn lời cô gái:
Em muốn hỏi anh một lời
Ai đào sông cho cá lội, ai chống trời cho chim bay?
Nhưng bên đáp lại chửi thẳng:
Em đừng hỏi dại hỏi thàm
Lấy cọc truồng (chuồng) lợn chống hàm em lên.
Một cô gái không thích chàng trai cứ theo đuổi mình, bèn chửi:
Mồ cha mả mẹ chi anh đây
Mà đêm anh viếng mà ngày anh thăm.
Người con trai bực quá, cũng đốp ngay:
Đường cái anh đi thẳng băng
Anh có đi lên cao tổ thượng tầng nhà em mô (đâu)?
Cũng tương tự, một cô gái khuyên:
Ngày ba mươi tháng chạp
Ngày mồng một tháng giêng
Anh không về bái yết tổ tiên
Cứ lơ lơ lửng lửng cửa thuyền quyên em mãi hoài.
Nghe nói vậy, chàng trai cáu tiết, chửi bâng quơ:
Cha tiên nhân con bướm trắng
Mẹ con ong vàng
Bởi vì ai nông nổi để cho nàng đong đưa.
Có chàng thư sinh hát ghẹo các cô gái đang cấy:
Nhà em tội lỗi vì đâu
Suốt ngày cứ chổng phao câu lên trời?
Chàng liền bị các cô đáp lại:
Bây giờ nông vụ chí kỳ
Em mà không chổng lấy gì anh ăn?
Câu đáp ấy không có lời chửi nhưng ngẫm kỹ thật sâu cay hơn một lời chửi trực tiếp.
Có thể nhận xét rằng chửi trong hát ví Nghệ Tĩnh về nội dung, động cơ, từ ngữ có nhiều điểm không giống với lời chửi hàng ngày. Đó không phải là lời cay độc hoặc thô tục để nói phạm hay hạ nhục nhau. Cái cớ để chửi cũng không nghiêm trọng (như mất của, bị xúc phạm nặng nề). Lời chửi ở đây chỉ bộc lộ sự bực tức, sự phản ứng trực tiếp, có khi còn có cả sự trêu chọc nghịch ngợm… Vì vậy, nó thường không ảnh hưởng tiêu cực đến tình thân hữu của những người tham gia. Đôi khi nó còn tạo không khí thách thức, kích thích những cảm hứng mới cho cuộc hát. Nó cũng thể hiện tài ứng khẩu, nhanh trí của người đối đáp. Lời chửi, chế giễu, mỉa mai, than trách cũng có những tác dụng nhất định trong việc tác động đến người nghe, gây nên phản ứng và điều chỉnh hành vi, thái độ phê phán…
Nó cũng phản ánh một phần tính cách của người dân Nghệ Tĩnh: bộc trực nhưng nhẹ nhàng, thâm thuý mà dí dỏm, gian khổ nhưng vẫn rất yêu đời. Những lời hát chửi hay mỉa mai, suy cho cùng cũng chỉ là sự vui đùa, giải trí thể hiện tính hài hước, sự lạc quan đến hồn nhiên. Cho nên, đứng ở góc độ nào đó, cũng có thể tìm thấy ở đây nét văn hóa của một lối sinh hoạt đầy ắp hơi thở cuộc sống, thấm đẫm giọt mồ hôi, giọt nước mắt của tiếng khóc, tiếng cười của người lao động ngày xưa.
Ngày xưa… Bởi vì hôm nay, thời thế thay đổi, môi trường “diễn xướng” của lối hát hò đối đáp hồn nhiên như vậy đã không còn nữa. Nó chỉ còn là những kỷ niệm của rất ít người. Đó là tiếng hát hò của “một thời quá vãng”, nhắc lại để mà nhớ. Biết vậy, nên chúng ta càng cần phải quý trọng những gì mà cha ông ta đã tạo nên tự… ngày xưa.
P.M.C
Tài liệu trích dẫn chính
- Nguyễn Chung Anh – Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb Văn Sử Địa, H., 1958.
- Nguyễn Đổng Chi – Ninh Viết Giao – Ca dao Nghệ Tĩnh, Sở Văn hoá thông tin Nghệ Tĩnh, 1984.
- Ninh Viết Giao – Hát phường vải (Dân ca Nghệ Tĩnh), Hội VNDG Nghệ An - NXB Nghệ An - 1993.
- Vũ Ngọc Phan – Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (bản in lần thứ 8); Nxb Khoa học xã hội, H. 1978.
Chú thích:
- Vò: Cái bình bằng sành, đựng nước.
- Ở Nghệ Tĩnh khi cày bừa để điều khiển trâu bò sang phải thì hô “tắc”, sang trái hô “rì”, đứng lại: “hò”.
- Cu: vừa chỉ con trai, vừa chỉ “cái ấy” của nam giới.
- Cho nên mới có câu:
Khi giận dức mắng (chửi mắng) tả tơi
Khi thương hôn hít những nơi hiểm nghèo!
(Ca dao Nghệ Tĩnh, tr.357)
[1] Vò: Cái bình bằng sành, đựng nước.
[2] Ở Nghệ Tĩnh khi cày bừa để điều khiển trâu bò sang phải thì hô “tắc”, sang trái hô “rì”, đứng lại: “hò”.
[3] Cu: vừa chỉ con trai, vừa chỉ “cái ấy” của nam giới.
[4] Cho nên mới có câu:
Khi giận dức mắng (chửi mắng) tả tơi
Khi thương hôn hít những nơi hiểm nghèo!
(Ca dao Nghệ Tĩnh, tr.357)