BÀI 6 - TỪ XƯNG HÔ - Trần Thị Lam Thủy
BÀI 6
TỪ XƯNG HÔ
Tác giả: Trần Thị Lam Thủy
Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích dẫn từ trang này
1. Khái niệm và phân loại
Bảng 1 – Phân loại từ xưng hô trong tiếng Việt
TT |
Từ xưng |
Từ gọi |
1 |
- Đại từ nhân xưng |
- Đại từ nhân xưng |
2 |
- Danh từ chỉ quan hệ thân tộc |
- Danh từ chỉ quan hệ thân tộc |
3 |
- Danh ngữ xác định |
- Danh ngữ xác định |
4 |
|
- Danh ngữ chức danh |
5 |
- Tên riêng |
- Tên riêng |
2. Các loại từ xưng hô trong tiếng Việt
2.1. Đại từ nhân xưng
Trong tiếng Việt, đại từ nhân xưng được phân chia theo các ngôi như sau:
Bảng 2 - Đại từ nhân xưng tiếng Việt
Ngôi |
Số ít |
Số nhiều |
Ngôi thứ nhất |
tôi, tao, tớ, mình… |
chúng tôi, chúng tao, chúng/bọn tớ, chúng mình… |
Ngôi thứ hai |
anh, chị, cậu, mày… |
các anh, các chị, các cậu… |
Ngôi thứ ba |
nó, hắn, anh/chị/cậu ấy… |
chúng nó, bọn hắn, họ… |
Ví dụ:
- Khi nào tôi hô thì kéo nhá! (Nguyễn Đình Tú, Chuông ngân cửa Phủ)
- Kiên, tao hạ lệnh cho mày giết tao mau. (Bảo Ninh, Thân phận của tình yêu).
2.2. Danh từ chỉ quan hệ thân tộc
Số lượng danh từ chỉ quan hệ thân tộc (DTTT) trong tiếng Việt không nhiều, và đều là từ đơn tiết (bác, chú, cậu, cô, anh, em, ông, bà, cháu…). Ngữ nghĩa của DTTT trước hết để chỉ quan hệ huyết thống trong gia đình. Tuy nhiên, với truyền thống văn hóa trọng tình, luôn muốn thể hiện mối quan hệ thân tình với người giao tiếp như người nhà, người Việt rất ưa dùng lớp từ này.
Ví dụ:
- Hồng, lại đây cậu bảo. (Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)
- Cháu là con nhà ai? (Sơn Tùng, Búp sen xanh)
- Bác làm ơn cho cháu hỏi đường về thôn Đoài ạ.
2.3. Danh ngữ xác định
Ví dụ:
- Kẻ nhà quê này không bao giờ bán bạn cả. Ông anh cứ yên tâm đi!
- Cậu thằng Hồng vẫn còn thức đấy ư? (Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)
2.4. Danh ngữ chức danh
Danh từ chỉ chức danh chỉ dùng để hô gọi (ngôi thứ 2) chứ không dùng để xưng (ngôi thứ nhất). Ví dụ:
- Thưa bác sĩ!
- Thưa giám đốc
- Báo cáo chủ tịch!
2.5. Tên riêng
- Bỗng thằng Sặt ngủ giường bên khóc thét lên:
– Bắt đền bu đấy nào (...) Chúng nó cứ chế Sặt đấy nào!
(Kim Lân, Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng Vật, TTVHVN, tr. 430)
- Hồng, lại đây cậu bảo. (Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)
Qua cách gọi của một người nào đó đối với người đối diện hoặc người được nói tới chúng ta biết được thái độ, tình cảm của người nói như thế nào đối với người kia. Nếu nghệ thuật lấy đối tượng phản ánh là con người làm trung tâm thì vốn từ xưng gọi luôn luôn là những chứng cứ đáng tin cậy để chúng ta có thể giải mã văn bản nghệ thuật.
Xét về mặt phong cách các từ xưng hô nói trên thuộc các nhóm sau: trang trọng; trung hòa; thân mật, suồng sã; thô tục, khinh thường. Ví dụ, khi con người được xưng hô theo danh từ thân tộc thì cá nhân đó bao giờ cũng là con người chức năng hay bị ràng buộc bởi những thiết chế xã hội mang tính văn hóa truyền thống. Đó là những con người bị bó buộc trong bổn phận (một ông già cũng có thể phải gọi một cậu bé bằng anh) và luôn phục tùng hoàn cảnh cho dù có lúc họ cũng cố gắng chống lại nó nhưng cuối cùng cũng đành bất lực trước thực tại đã trở thành lề, nếp của những hoàn cảnh văn hoá – xã hội cụ thể.
Từ xưng hô với các cách xưng hô nhiều hình nhiều vẻ của tiếng Việt đã đáp ứng những yêu cầu tế nhị của giao tiếp xã hội phức tạp. Trong các hoạt động giao tiếp, sự thay đổi các cách xưng hô và các cặp từ hô ứng có giá trị đặc biệt quan trọng.
3. Một số lưu ý về quy tắc xưng hô của người Việt
- Người Việt coi trọng tính lịch sự trong xưng hô.
- Cách xưng hô của người Việt phân biệt sự khác nhau về vai vế và tuổi tác.
- Phương châm xưng hô “xưng khiêm hô tôn”. Xưng hô khiêm nhường là nét đặc thù trong văn hóa giao tiếp của người Việt.
- Một xu hướng đặc biệt của người Việt trong xưng hô là còn mang tính chất “gia đình hoá”.
Bởi vậy, là một người Việt, cần nắm được những quy tắc này để "lựa lời" trong khi giao tiếp - nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất - tạo được các mối quan hệ với người giao tiếp tốt hơn khi sử dụng đúng cách xưng hô.
Mọi trao đổi về chuyên môn, vui lòng liên hệ tới: TS. Trần Thị Lam Thủy, Email: dr.lamthuytran@gmail.com